lich su may phat dien
[b]máy tình điện tử ra đời vào năm 1946 tại hoa kì từ đó đã phát triển rất mạnh và đến nay đã trải qua các thế hệ máy . + thế hệ 1 (thập niên 50 ) ùng bòng điện tử chân không, tiêu thụ năng lượng rất lớn. kích thước máy rất lớn (khoảng 250 m vuông ) nhưng tốc độ sử lý lại rất chậm chỉ đạt khoảng vài ngàn phép tính trên giây.giá cả thì cắt cổ . …
Tại màn hình hướng dẫn thông tin thủ tục hành chính, người dân, doanh nghiệp chọn UBND cấp xã hoặc Phòng Tư pháp cấp huyện để đăng ký đặt lịch hẹn chứng thực, sau đó bấm nút [Đồng ý] như sau: (với 2 loại đơn vị là Tổ chức hành nghề công chứng và Cơ quan đại
Tổng công ty Điện lực Miền Bắc (EVNNPC) và UBND tỉnh Nghệ An vừa có buổi làm việc với nhiều nội dung quan trọng, đặc biệt là việc cam kết phát triển hạ tầng lưới điện, đáp ứng nhu cầu tăng trưởng kinh tế xã hội trên địa bàn. Bà Đỗ Nguyệt Ánh - thành viên HĐTV
Bảng giá máy phát điện công nghiệp công suất lớn, máy diesel nhập khẩu chính hãng giá rẻ. Máy phát điện Mỹ, Anh, Nhật Bản, Ấn Độ
haratrain.com.vn,tàu haratrain,haratrain,haratrain.com,haratrain viet nam,haratrain 142 le duan,haratrain express,haraexpress,hara express, Haratour.com,ve tau truc tuyen,ve tau gia re,ve tau Lao Cai,ve tau Sapa,ve tau nam mem,ve tau nam cung,ve tau khoang 4 op go,ve tau op go, ve tau dien toan,ve tau bac nam,vetau ha noi,ve tau sai gon,ve tau vinh,ve tau thanh hoa,ve tau Dong hoi,ve tau Hue
mengapa keragaman agama tidak boleh menjadi penghambat dalam pergaulan jelaskan. Lịch sử hình thành máy phát điện, khám phá những điều thú vị từ lịch sử hình thành của chiếc máy phát điện đầu tiên trên thế giới nhé. Năm 1831, nhà vật lí, nhà hóa học người Anh Michael Faraday Michael Faraday 1791 ~ 1867 trong các thử nghiệm của mình phát hiện ra rằng khi nam châm chuyển động trong cuộn dây, cuộn dây sẽ sinh ra một dòng điện, đây chính là hiện tượng cảm ứng điện từ mà ngày nay chúng ta đều biết đến. Ông cũng thấy rằng việc sử dụng các tương tác điện từ có thể tạo ra lực quay, từ nghiên cứu của mình, Faraday đã sáng chế ra chiếc máy phát điện chạy dầu đầu tiên trên thế giới, góp phần quan trọng cho việc sử dụng năng lượng điện của con người. Nghiên cứu của Faraday đã đạt được kết quả xuất sắc, vì thế các thế hệ sau này đã lấy Fara F làm đơn vị đại lượng điện dung để tưởng nhớ ông. Năm 1866, nhà khoa học Đức Ernst Werner Von Siemens 1816 ~ 1892 đã chế tạo ra máy phát điện tự kích , năm 1870, nhà khoa học Bỉ Z T Cram 1826 ~ 1901 đã sáng chế ra máy phát điện dòng điện 1 chiều tự kích, sau khi liên tục cải tiến, kỹ thuật điện máy đã đạt được những bước thành công nhất định, vào năm 1877 máy phát điện bắt đầu bước vào giai đoạn phát triển thương mại hóa. About mxdthanglong Bài này đã được đăng trong Tin tức máy phát điện. Đánh dấu đường dẫn tĩnh.
Nguồn điện thiết yếu cho cuộc sống của chúng ta đã trải qua nhiều giai đoạn để phát triển thành máy phát điện. Chúng tôi giới thiệu sơ lược về lịch sử máy phát điện và dòng thời gian của chúng và chiêm ngưỡng những hình ảnh máy phát điện đời đầu. Nội dung chính1. Lịch sử máy phát điện qua từng thế hệMáy phát tĩnh điệnTrình tạo đĩa FaradayMáy phát điện một chiềuMáy phát điện xoay chiều2. Sự đa dạng của máy phát điện trong lịch sử 1. Lịch sử máy phát điện qua từng thế hệ Một sô thế hệ máy phát điện để đời của nhân loại Máy phát tĩnh điện Các phiên bản máy phát điện đầu tiên là các đai, tấm và đĩa tích điện. Chúng có điện áp cao và dòng điện thấp. Chúng thực sự chỉ có hai ứng dụng thực tế là cung cấp năng lượng cho ống tia X và máy gia tốc hạt nguyên tử. Trình tạo đĩa Faraday Michael Faraday lần điện tiên tạo ra “Định luật Faraday” vào năm 1832. Từ lý thuyết này, ông đã tạo ra máy phát điện từ đầu tiên của mình Faraday Disc. Máy phát điện này sử dụng một đĩa đồng quay giữa các cực của nam châm hình móng ngựa và tạo ra điện áp một chiều. Tìm hiểu về máy phát điện thì phát minh của Faraday chính là nền móng lịch sử máy phát điện. Nó chính là tiền thân để sáng tạo ra những chiếc máy phát điện hiện đại hơn sau này. Hình ảnh đĩa Faraday Máy phát điện một chiều Một cuộn dây quay trong từ trường tạo ra dòng điện đổi chiều với mỗi góc quay 180 độ, tạo ra dòng điện xoay chiều. Tuy nhiên nhiều trường hợp sử dụng điện sớm đòi hỏi dòng điện một chiều. Điều này gây nên một chút vấn đề khi các máy phát điện lại tạo ra dòng điện xoay chiều. Trong các máy phát điện thực tế đầu tiên, được gọi là Dynamo, điện xoay chiều được đổi thành một chiều với một bộ chuyển mạch. Phương pháp chuyển đổi này thực hiện bằng cách sử dụng cổ góp đảo ngược kết nối của dòng điện sau mỗi lần quay 180 độ của trục để tạo ra dòng điện một chiều. Dynamo được sáng chế vào năm 1832 bởi Hippolyte Pixii. Nó là một sự lựa chọn phổ biến trong một thời gian. Và con người bắt đầu sử dụng nam châm điện và làm cho máy phát điện mạnh hơn nhiều. Hình ảnh máy phát điện một chiều Máy phát điện xoay chiều Thông qua một loạt những khám phá, Dynamo được kế tục bởi nhiều phát minh sau này. Lịch sử máy phát điện có phát minh lớn nhất chính là máy phát điện xoay chiều với khả năng tạo ra dòng điện xoay chiều. Nó thường được biết đến hơn với tên gọi là máy phát điện đồng bộ. Nó có khả năng kết nối trực tiếp vào lưới điện và cần được đồng bộ hóa đúng cách trong quá trình khởi động. Năm 1882, máy phát điện xoay chiều hai pha lớn được chế tạo bởi một thợ điện người Anh, Gordon. Sau năm 1891, máy phát điện xoay chiều nhiều pha ra đời, cung cấp dòng điện của nhiều pha khác nhau. Các máy phát điện sau này được thiết kế để thay đổi tần số dòng điện xoay chiều để ứng dụng được đa dạng và linh hoạt hơn. Hình ảnh máy phát điện xoay chiều Tìm hiểu thêm về máy phát điện xoay chiều tại đây. 2. Sự đa dạng của máy phát điện trong lịch sử Không chỉ gói gọn là những máy phát điện dân dụng, nhiều nhà sản xuất đã phát minh ra những máy phát điện công nghiệp có công suất lớn. Khó có thể tin được, chỉ trong hơn một trăm năm lịch sử, từ một máy phát điện đơn giản các nhà khoa học có thể cho ra đời nhiều dòng máy phát điện đến thế. Bạn đọc có thể tham khảo thêm các bài viết khác về lịch sử máy phát điện bằng cách click tại đây. Tổng kho máy phát điện cung cấp các loại máy phát điện công nghiệp phục vụ mục đích dân dụng và công nghiệp. Và chúng tôi cũng có lịch sử công ty rộng lớn cho riêng mình. Hãy gọi cho chúng tôi ngay hôm nay để được tư vấn máy phát điện phù hợp nhất,
Từ những năm 20 thế kỷ trước, nhiều Nhà máy điện như Cửa Cấm, Thượng Lý, Yên Phụ,… lần lượt ra đời để phục vụ cho bộ máy cai trị của thực dân Pháp tại Việt Nam. Hầu hết các nhà máy được xây dựng với công suất nhỏ, đội ngũ những người thợ làm việc tại đây vô cùng vất vả, gian khổ. Nhưng chính từ trong bóng tối của áp bức, đô hộ, họ đã sớm được giác ngộ cách mạng, trở thành lực lượng nòng cốt trong phong trào công nhân đấu tranh chống thực dân Pháp và tiếp đó là kháng chiến chống Mỹ. Có thể nói, mỗi Nhà máy điện là một câu chuyện huyền thoại. Dù Nhà máy điện luôn là mục tiêu hủy diệt của hàng loạt trận đánh bom ác liệt, nhưng cán bộ, công nhân các Nhà máy điện vẫn kiên cường bám trụ, quyết giữ vững dòng điện sáng, chắc tay súng chiến đấu bảo vệ nhà máy. Nhiều người đã ngã xuống, nhưng họ sẽ mãi được các thế hệ làm điện tiếp nối ghi nhớ và vinh danh. Nhiều Nhà máy điện đã bị tàn phá nặng nề, buộc phải ngừng hoạt động, nhưng những di tích lịch sử, những gì còn lại của quá khứ sẽ luôn được trân trọng và gìn giữ… Nhà máy điện Thanh Hóa Nhà máy điện Thanh Hóa có 4 đơn vị phát điện là Phân xưởng Lôcômôbi Hàm Rồng, Phân xưởng Cổ Định, Phân xưởng Bàn Thạch và Phân xưởng Nhà máy điện 4 - 4 với tổng công suất kW, được xây dựng từ năm 1956 đến năm 1964. Đầu năm 1956, Nhà máy điện Lôcômôbi Hàm Rồng được khởi công xây dựng, công suất đặt là 600 kW. Ngày 18/01/1958, Nhà máy chính thức phát điện. Nhà máy Nhiệt điện Cổ Định là nhà máy thứ hai được xây dựng tại Thanh Hóa, cấp điện cho khai thác quặng mỏ cờ-rômit Cổ Định. Nhà máy được khởi công xây dựng ngày 22/11/1958, công suất thiết kế là 2x1500 kW. Ngày 6/4/1961, Bộ Thủy lợi – Điện lực đã quyết định thành lập Nhà máy điện Thanh Hóa trên cơ sở sáp nhập Nhà máy điện Lôcômôbi và Nhà máy điện Cổ Định. 2 Nhà máy điện này trở thành 2 phân xưởng sản xuất điện của Nhà máy điện Thanh Hóa. Năm 1962, Nhà máy điện Thanh Hóa có thêm 1 đơn vị phát điện là Phân xưởng điện Bàn Thạch ở Thọ Xuân, công suất 960 kW, được xây dựng với sự viện trợ của Chính phủ Liên Xô, cấp điện cho các trạm bơm nước tưới tiêu phục vụ sản xuất nông nghiệp. Do nhu cầu sử dụng điện ngày càng tăng, Thanh Hóa đã khởi công xây dựng cơ sở phát điện thứ 4 vào đầu năm 1960, công suất thiết kế là kW. Máy móc, thiết bị phát và truyền tải điện do Hungari cung cấp. Ngày 4/4/1964, Nhà máy được khánh thành, đi vào hoạt động và được đặt tên là Nhà máy điện 4-4. Nhà máy điện Thanh Hóa năm 1960. Nguồn ảnh Trần Nguyên Hợi Từ cuối năm 1964, Đế quốc Mỹ tiến hành chiến tranh phá hoại ở miền Bắc, Nhà máy điện Thanh Hóa đã thành lập đội tự vệ chuẩn bị sẵn sàng chiến đấu, bảo vệ Nhà máy, bảo vệ sản xuất. Từ khi thành lập, Đội tự vệ Nhà máy luôn là nòng cốt trong công tác chuẩn bị chiến đấu chống chiến tranh phá hoại của máy bay Mỹ. Đội tự vệ đã đào 750 hầm trú ẩn, mét giao thông hào có 950 m qua núi làm các công cụ phục vụ chiến đấu, chuyển các thiết bị, máy dự phòng đến địa điểm an toàn… Trong 3 năm 1965-1968, Nhà máy điện Thanh Hóa có 9 cán bộ, công nhân hy sinh và 34 người bị thương vì bom đạn của máy bay Mỹ. Giặc Mỹ đã ném xuống Nhà máy quả bom các loại, 66 thùng bom bi mẹ, 36 quả bom lân tinh, bắn 306 tên lửa, 1456 quả rốc két, 182 quả đại bác. Bị đánh phá ác liệt, cán bộ công nhân Nhà máy điện Thanh Hóa đã di chuyển thiết bị, máy móc và sơ tán các cơ sở phát điện. Đồng thời, để đảm bảo điện cho thời chiến, Nhà máy điện Thanh Hóa đã lập 5 cụm phát điện nhỏ, lắp đặt từ các máy phát điện diesel, tổng công suất kW. Với sự nỗ lực của CBCNV, sản lượng điện của Nhà máy điện Thanh Hóa suốt trong 10 năm diễn ra chiến tranh phá hoại của không quân Mỹ đã không bị giảm sút mà còn gia tăng. Năm 1965, sản lượng điện kWh. Năm 1970, đạt kWh. Năm 1975, sản lượng kWh. Tháng 12/1966, Nhà máy điện Thanh Hóa đã vinh dự được Quốc hội và Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân. CBCNV Nhà máy có 2 người được tặng danh hiệu Anh hùng. Tiểu đoàn tự vệ Nhà máy điện Thanh Hóa được công nhận là Đơn vị Quyết thắng, được tặng thưởng Huân chương Chiến công hạng Hai, hạng Ba. Nhà máy điện Thượng Lý Hải Phòng Nhà máy điện Thượng Lý tiền thân là Xưởng phát điện của Nhà máy Xi măng Hải Phòng. Năm 1955, ngay sau khi tiếp quản thành phố Hải Phòng, Chính quyền cách mạng non trẻ của Thành phố đã bắt tay ngay vào công cuộc cải tạo, khôi phục kinh tế. Xưởng phát điện nhanh chóng được sửa chữa phục vụ sản xuất xi măng, góp phần tái thiết thành phố Cảng. Năm 1959, Bộ Công nghiệp cho bổ sung thêm 2 lò hơi Ba Lan. Ngày 1/4/1961, Bộ Công nghiệp quyết định giao Xưởng phát điện Thượng Lý cho Nhà máy điện Hải Phòng quản lý, từ đó việc cung cấp điện cho xi măng ngày càng hiệu quả hơn. Do thiết bị máy móc cũ, khi vận hành thường hay xảy ra sự cố, Nhà máy đã thành lập phân xưởng Sửa chữa. Năm 1969, Nhà máy có gần 500 cán bộ, nhân viên. Công suất nhà máy nhỏ. Máy móc, thiết bị lạc hậu, các khâu sản xuất phần lớn phải làm thủ công, mất nhiều công sức,thời gian. Hằng ngày, công nhân phải bốc than từ sông Thượng Lý, chở bằng xe goòng về kho xa vài trăm mét. Sau khi đốt lò, lại phải dùng xe goòng chở xỉ ra bãi thải. Nhà máy có phân xưởng chế biến than cấp cho lò nung, nên môi trường xung quanh Nhà máy lúc nào cũng bụi bặm, nhem nhuốc. Cán bộ, công nhân làm 3 ca liên tục, không có nghỉ Tết, nghỉ lễ. Hằng ngày, anh em phải đi đò qua sông hoặc thậm chí bám dây cáp, miệng ngậm cặp lồng cơm, bơi qua sông vì cầu Thượng Lý và cầu Quay đều đã bị máy bay Mỹ đánh sập. Ngày 20/4/1967, Mỹ đánh phá hủy diệt Nhà máy điện Cửa Cấm và đánh sang Nhà máy điện Thượng Lý. Công nhân được lệnh xuống hầm trú ẩn. Chỉ có 3 công nhân trực ca ở lại. Dưới làn bom đạn, họ vẫn bám trụ kiên cường để dòng điện sáng. Năm 1969, Mỹ ném bom vào Nhà máy, quả bom rơi trúng băng chuyền than và chưa phát nổ nếu bom nổ thì tan Nhà máy. Những cán bộ, công nhân lúc đó quyết định phải lập đội tháo gỡ bom. Rất nhanh chóng, đội tháo bom gồm 3 người có chuyên môn Thợ cơ khí, thợ điện, thợ máy được giao thực hiện nhiệm vụ. Nhà máy còn tổ chức lễ “truy điệu sống” cho cả 3 người trước lúc tháo bom, để anh em được “chia tay” trong tình cảm ấm áp tình đồng đội, tình đồng chí, tình người. Ông Hoàng Ngọc Nhạc – một trong ba người tham gia nhiệm vụ nguy hiểm này cho biết, lúc bấy giờ ông 28 tuổi, xung phong vào đội tháo bom, không hề sợ cái chết mà chỉ thấy vui và tự hào. Quả bom nặng 950kg, được 3 công nhân trực tiếp tháo bằng vồ gỗ trong vòng 1 tiếng. Sau khi cắt dây an toàn, quả bom được đưa ra ngoài bằng xe kéo giao cho Quận đội tại Hồng Bàng. Ông Nguyễn Vinh Hiển – Nguyên Trưởng ca Nhà máy điện Thượng Lý chia sẻ, ông từng chứng kiến hai trận ném bom dữ dội của Mỹ xuống Nhà máy vào ngày 20/4/1967 và 16/4/1972. Theo ông Hiển, trận đánh năm 1967 phá hủy 4 lò BW của Nhà máy, làm chết và bị thương nhiều cán bộ, công nhân. Nhưng trận đánh năm 1972 còn ác liệt, dữ dội hơn nhiều. Bom B52 của Mỹ trút xuống từng đợt, cứ 30 phút lại rải xuống Nhà máy một lần, suốt từ chập tối đến đêm, tất cả 8 lượt oanh tạc, làm cho Nhà máy bị thiệt hại nặng nề. Thế nhưng cán bộ, công nhân Nhà máy vẫn kiên cường bám trụ, lạc quan, khi vào ca còn “oẳn tù tì” với nhau để xem hôm nay ai bị… “cắt sổ gạo”! Tuy bị thiệt hại nặng nề từ những trận đánh phá thảm khốc của máy bay Mỹ, nhưng Nhà máy điện Thượng Lý vẫn “chia lửa" với các đơn vị bạn, tăng cường chi viện cho hầu hết các Nhà máy điện miền Bắc như Uông Bí, Thái Nguyên, Lạng Sơn, Việt Trì… Năm 1972, Nhà máy cử đoàn công tác gồm 15 cán bộ, nhân viên tăng cường bảo vệ Nhà máy Thủy điện Thác Bà. Năm 1984, Nhà máy điện Thượng Lý ngừng hoạt động vì máy móc, thiết bị lạc hậu nên hiệu quả kinh tế thấp, công suất phát không cao kW. Tuy nhiên, hình ảnh Nhà máy điện Thượng Lý anh dũng trong chiến đấu chống máy bay Mỹ, kiên cường bám trụ trong sản xuất, giữ vững dòng điện cho thành phố Hoa Phượng Đỏ suốt những năm dài chiến đấu vẫn mãi mãi còn in sâu đậm trong tâm trí người dân đất Cảng, cũng như nhân dân cả nước. Nhà máy điện Uông Bí Quảng Ninh Nhà máy Nhiệt điện Uông Bí là nhà máy sử dụng công nghệ ngưng hơi thuần túy, được Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa khởi công xây dựng ngày 19/5/1961. Sự ra đời của Nhà máy là sự kiện quan trọng trong lịch sử phát triển ngành Công nghiệp non trẻ của Việt Nam vào thời điểm miền Bắc vừa được giải phóng. Với công trình này, đầu thập niên 60 của thế kỷ XX, Việt Nam đã có một nhà máy nhiệt điện tầm cỡ bậc nhất trong khu vực Đông Nam Á. Ngày 20/11/1963, dòng điện đầu tiên của Nhà máy đã hòa vào lưới điện miền Bắc. Ngày 18/1/1964, sau gần 3 năm khẩn trương xây dựng và lắp đặt thiết bị, với sự giúp đỡ tận tình của các chuyên gia Liên Xô, cùng với công sức của hơn cán bộ và công nhân Việt Nam, Nhà máy đã hoàn thành xây dựng đợt 1 gồm 2 lò, 2 tổ máy, công suất 24 MW. Năm 1965, Nhà máy hoàn thành xây dựng đợt 2, công suất 24 MW. Công nhân Nhà máy điện Thượng Lý mừng công hoàn thành vượt mức kế hoạch đại tu máy tuabin số 3 trước 10 ngày Hải Phòng, 1965. Nguồn ảnh Trần Nguyên Hợi Ngày 15/12/1965, Nhà máy Nhiệt điện Uông Bí phải hứng chịu trận ném bom đầu tiên của máy bay Mỹ. Nhà máy bước sang giai đoạn mới, vừa sản xuất, vừa chiến đấu bảo vệ dòng điện. Trong những năm chống Mỹ, quả bom các loại của không lực Hoa Kỳ đã ném xuống địa bàn Nhà máy, làm cho Nhà máy phải tiến hành 10 đợt phục hồi. CBCNV Nhà máy đã anh dũng trong sản xuất, quyết tâm bám lò, bám máy, đoàn kết chiến đấu chống lại những đợt ném bom hủy diệt của máy bay Mỹ, giữ vững tinh thần lao động sản xuất và chiến đấu. 8 CBCNV- Chiến sỹ tự vệ Nhà máy đã hy sinh trong khi thực hiện nhiệm vụ. Năm 1966, công trình “ống khói ngầm” đưa ống khói nhà máy chìm dưới lòng sông để ngụy trang, tránh máy bay địch ném bom ra đời và đã đi vào lịch sử như một sáng kiến đặc biệt, thể hiện nghị lực, ý chí kiên cường, bất khuất của tuổi trẻ - Công nhân điện Uông Bí. Công trình đã được Trung ương Đoàn Thanh niên Lao động Việt Nam biểu dương và lắp thành mô hình đưa sang triển lãm tại Matxcơva, giới thiệu sự sáng tạo của tuổi trẻ Việt Nam trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước, được bạn bè quốc tế ca ngợi và thán phục. Từ 1964- 1971, Nhà máy đã đóng góp sản lượng điện lên tới kWh cho miền Bắc XHCN, năm nào cũng vượt mức kế hoạch sản xuất điện. Từ 1973- 1975, Nhà máy thực hiện nhiệm vụ trọng tâm là khôi phục và mở rộng, nâng cao hiệu quả sản xuất theo tinh thần Nghị quyết 22 của Trung ương Đảng. Sau Đại thắng mùa Xuân 1975, Nhà máy điện Uông Bí đã hoàn thành việc mở rộng quy mô sản xuất đợt 3 năm 1976 với công suất 50 MW và đợt 4 năm 1977- 1980, công suất 55 MW. Tổng công suất của Nhà máy sau 4 đợt mở rộng là 153 MW. Trong 10 năm từ 1976- 1986, Nhà máy đã vượt qua nhiều khó khăn của thời kỳ kinh tế tập trung, quan liêu bao cấp, hoàn thành và đưa vào sử dụng nhiều công trình mới như Đập tràn sông Uông, lò hơi số 1, tua-bin, máy phát số 1, băng tải 1 và 2, băng tải 3 và 4, Nhà cơ khí, Nhà che than khô, hệ thống đường sắt… Nhà máy đã được Nhà nước tặng thưởng Huân chương Lao động hạng Ba năm 1981. Cuối thập niên 80 thế kỷ XX, với sự tham gia phát điện của một số Nhà máy điện công suất lớn như Nhiệt điện Phả Lại và Thủy điện Hòa Bình, miền Bắc bắt đầu xuất hiện tình trạng thừa điện. Trước tình hình đó, Bộ Năng lượng đã chỉ đạo Nhiệt điện Uông Bí phải dừng lò. Đây là giai đoạn khó khăn nhất của Nhà máy. Đảng bộ Nhà máy và Ban Giám đốc đã sáng suốt chọn giải pháp Tập trung vào công tác bảo quản máy móc thiết bị bằng phương pháp phòng mòn với vị thế dự phòng, sẵn sàng phát điện khi đường dây 500 kV đã đóng điện. Cùng với sự phát triển của ngành Điện, từ năm 1994, Nhà máy đã phát điện trở lại, đạt sản lượng 650 triệu kWh/năm. Tiếp đà phát triển, Nhà máy Nhiệt điện Uông Bí thực hiện Dự án Uông Bí mở rộng 1, công suất 300 MW, sản lượng điện 1,8 tỷ kWh/năm. Dự án được khởi công năm 2002, đã hòa đồng bộ vào lưới điện quốc gia ngày 18/12/2006. Tháng 3/2005, Nhà máy Nhiệt điện Uông Bí đổi tên thành Công ty Nhiệt điện Uông Bí theo Quyết định số 15/2005/QĐ – BCN. Năm 2008, Công ty Nhiệt điện Uông Bí tiếp tục khởi công Dự án Uông Bí mở rộng 2, công suất 330 MW, mỗi năm hòa vào lưới điện quốc gia 2 tỷ kWh. Theo Quyết định số 405/QĐ - EVN, ngày 30/6/2010 của Tập đoàn Điện lực Việt Nam, Công ty chuyển sang mô hình Công ty TNHH MTV, tên gọi Công ty TNHH MTV Nhiệt điện Uông Bí.
Nội dung Text Lịch sử và nguồn gốc máy phát điện Lịch sử và nguồn gốc máy phát điện Một số máy phát điện nhỏ nhất có thể thấy là các máy phát điện cho đèn xe đạp. Các máy này thường là các máy phát nam châm vĩnh cửu, 0,5 A, cung cấp một công suất 3 đến 6 w ở điện thế 6 đến 12 V. Để có thể quay được bằng sức nguòi đạp, vấn đề hiệu suất phải đặt ra hàng đầu, và phải được thiết kế và chế tạo rất tinh xảo, với những nam châm vĩnh cửu đất hiếm. Tuy nhiên, hiệu suất của nó chỉ có thể đạt được đến 60% với những máy phát tốt nhất, và 40% với loại thông thường, do phải ử dụng nam châm vĩnh cửu. Nhưng nếu muốn dùng máy phát điều chỉnh được kích từ, lại phải dùng bình ắc quy. Điều này không thể chấp nhận được, vì nó làm tăng trọng lượng và kích thước. Những thuyền buồm thường sử dụng các máy phát kéo bằng sức nước hoặc sức gió, để nạp điện từ từ cho các bình ắc quy. Những chiếc chân vịt, các tua bin gió hoặc các bánh xe công tác sẽ được kết nối với các máy phát công suất thấp và bộ chỉnh lưu để có dòng điện đến 12 A ở tốc độ nhỏ nhất. Máy phát điện - động cơ nổ Máy phát điện - động cơ của một trạm thu phát vô tuyến. nhà bảo tàng quân sựDubendorf. Máy phát chỉ phát điện khi cần phát tín hiệu vô tuyến. Còn phía máy thu thì dùng nguồn ắc quy Máy phát điện quay tay của trạm thu phát vô tuyến nhà bảo tàng quân sự Dubendorf Một máy phát điện - động cơ nổ là tổ hợp một máy phát điện và một động cơ nổ kéo nó thành một khối thiết bị. Tổ hợp này có khi được gọi là bộ máy phát điện - động cơ engine-generator set hoặc bộ máy phát gen-set. Trong nhiều ngữ cảnh khác nhau, người ta có thể quên đi cái động cơ nổ, mà chỉ gọi đơn thuần cả tổ hợp là máy phát điện generator. Đi kèm với máy phát điện và động cơ nổ, các bộ máy phát điện - động cơ nổ thường có kèm theo một bồn chứa nhiên liệu, một bộ điều tốc cho động cơ nổ và một bộ điều thế cho máy phát điện. Nhiều khối máy còn kèm theo bình ắc quy và bộ động cơ điện khởi động. Những tổ máy dùng làm máy phát dự phòng thường bao gồm cả hệ thống tự động khởi động và một bộ chuyển mạch đảo nguồn transfer switch để tách tải ra khỏi nguồn điện dịch vụ và nối vào máy phát. Các bộ máy phát điện - động cơ nổ cung cấp công suất điện xoay chiều sao cho nó có thể được sử dụng thay thế nguồn điện lưới thường phải mua từ các trạm phân phối của công ty điện lực. Các thông số diện áp volt, tần số Hz và công suất watt định mức của máy phát được lựa chọn sao cho phù hợp với tải cần nối vào máy phát. Có cả hai loại máy một pha và ba pha. Rất ít loại máy ba pha là máy xách tay di động. Thường máy xách tay người ta chỉ làm máy một pha và hầu hết các máy ba pha là loại máy lớn dùng trong công nghiệp. Các bộ máy phát điện - động cơ nổ thường được chế tao trong một dải công suất khá rộng. Nó có thể bao gồm từ các máy di động quay tay có thể cấp điện cỡ vài trăm watt, loại xách tay như hình vẽ trên, có thể cấp điện cỡ vài nghìn watt và loại tĩnh hoặc loại đặt trên rơ moóc có thể cấp điện đến vài triệu watt. Các máy nhỏ thường dùng nhiên liệu là xăng, và các máy lớn hơn sử dụng nhiều nguyên liệu khác nhau, từ dầu diesel, khí tự nhiên hay khí propane. Khi sử dụng máy phát điện - động cơ nổ, bạn có thể phải quan tâm đến chất lượng của dạng sóng ra của nó. Điều này rất quan trong khi sử dụng những thiết bị điện tử nhạy cảm. Một bộ điều hòa điện năng power conditioner có thể lấy những sóng vuông do máy phát điện - động cơ nổ phát ra, và làm cho nó đẹp đẽ lại bằng cách cho nó chạy qua một mạch điện trong đó có phần trung gian là một bình ắc quy. Sử dụng một bộ nghịch lưu cao cấp thay thế máy phát điện có thể tạo ra điện áp có dạng sóng thuần sin hơn. Một vài loại nghịch lưu chạy rất êm, tạo ra điện áp sin rất sạch sẽ, phù hợp với máy tính điện tử và các thiết bị điện tử nhạy cảm. Tuy nhiên một số bộ nghịch lưu rẻ tiền không phát ra được điện áp sin hoàn hảo, và có thể làm hư hỏng một số thiết bị điện tử. Các máy phát điện động cơ nổ thường được sử dụng để cung cấp điện cho các vùng mà nguồn điện lưới không kéo đến được, và trong những tình huống phải cấp điện ngắn hạn tạm thời. Các máy phát nhỏ đôi khi có thể dùng để cấp điện cho các dụng cụ tại các công trường xây dựng. Các máy phát điện loại rơ moóc có thể dùng cấp điện cho chiếu sáng, và các trò chơi giải trí trong các hội chợ di động. Các máy phát điện dự phòng thường được lắp đặt cố định và luôn sẵn sàng hoạt động để cấp điện cho những tải quan trọng khi nguồn điện lưới bị gián đoạn. Bệnh viện, các cơ sở thông tin liên lạc, các trạm bơm và rất nhiều các dịch vụ quan trọng đều được lắp đặt máy phát điện dự phòng. Các máy phát điện cỡ nhỏ hoặc cỡ trung đặc biệt phổ biến ở các nước trong thế giới thứ ba, nơi nguồn điện lưới không tin cậy. Các máy phát điện đặt trên rơ moóc có thể được kéo đến những vị trí thiên tai khi nguồn điện lưới bị gián đoạn. Máy phát điện cũng có thể được vận hành bằng sức người để tạo ra nguồn điện tức thời trong lĩnh vực thông tin liên lạc. Máy phát điện - động cơ nổ công suất trung bình Tập tinBig Side view of a large Perkins diesel generator, manufactured by F&G Wilson Engineering Ltd. This is a 100 kVA set Máy phát điện - động cơ nổ công suất trung bình như hình vẽ dưới đây là một bộ máy có công suất 100 kVA cấp điện áp 415 V với dòng điện khoảng 110 A per phase. Nó được kéo bằng một máy Perkins Phaser, sê ri 1000 dung tích xy lanh 6,7l có hệ thống nạp gió kiểu turbo. Máy này tiêu thụ khoảng 27l nhiên liệu mỗi giờ, có bồn chứa 400 l. Các máy phát điện tĩnh có thể được thiết kế đến hàng nghìn kW và thường quay ở tốc độ 1500 vòng/phút với tần số 50 Hz, và 1800 vòng/phút với tần số 60 Hz. Các bộ máy sử dụng động cơ diesel ở công suất tối ưu có thể phát được khoảng 3 kWh với mỗi kG nhiên liệu, và có thể có hiệu suất thấp hơn khi làm việc ở các tải khác. Máy phát điện tua bin nước Thông thường, các tua bin nước có tốc độ thấp. Vì thế các máy phát điện kéo bằng tua bin nước cũng có tốc độ rất thấp. Các máy này thường có nhiều đôi cực, trục ngắn, đường kính lớn, chế tạo theo kiểu cực lồi. Tùy theo thể loại, và tùy theo tốc độ của tua bin nước, các máy này có thể được đặt đứng hay nằm ngang. Đối với những máy phát điện nhỏ, có đường kính ngoài nhỏ hơn 1 m, mạch từ của stator chỉ là một khối hình xuyến làm bằng các lớp lá thép kỹ thuật điện có sơn cách điện ghép lại. Đối với các máy có đường kính lớn hơn 1 m, thường phải làm từ nhiều khối dạng vòng cung. Rotor của máy phát điện thường làm bằng nhiều khối thép rèn ghép lại với nhau thành nhiều cực từ. Trên mỗi cực từ có các cuộn dây kích thích quấn tập trung. Máy phát điện tua bin hơi và tua bin khí Máy phát điện kéo bằng Tua bin hơi nước Các tua bin hơi và tua bin khí có tốc độ cao hơn tua bin nước. Các máy phát điện tua bin hơi hoặc tua bin khí thường được chế tạo với tốc độ cao nhất 3000 vòng/phút đối với máy có tần số 50 Hz, và 3600 vòng/ phút đối với máy 60 Hz. Hầu hết các máy phát điện tua bin hơi và máy phát điện tua bin khí là loại trục nằm ngang, chế tạo theo kiểu cực ẩn. Loại này có rotor dài hơn nhiều so với đường kính. Stator của máy cũng giống như máy phát cực lồi. Thông thường với đa số các máy có đường kính lớn hơn 1 m, lõi thép stator được chế tạo thành nhiều cung, bằng thép silicon cao cấp, có tính định hướng, phủ chất cách điện để giảm thiểu tổn thất điện năng. Người ta thường không ghép thành một khối như các máy điện cỡ nhỏ, mà làm thành nhiều lớp, có khe hở ở giữa để thông gió làm mát. Các đầu dây Stator của một máy phát điện sau khi tháo nắp máy phát Cuộn dây stator được làm từ các thanh dẫn đồng xếp nằm trong các rãnh, hai đầu nối lại với nhau thành các vòng dây. Các thanh dẫn thường không phải là thanh đặc nguyên khối, mà được làm từ các dây dẹp quấn bện theo kiểu Roebel, sao cho mỗi thanh nhỏ trong bó đều có một chiều dài bằng nhau, dù có phải uốn lượn theo nhiều hướng khác nhau. Các dây nối ra ngoài và dây nối giữa các pha, các vòng dây với nhau được cố định chắc chắn hai đầu bằng các vật liệu cách điện có độ bền điện và độ bền cơ học cao. Điện áp ra của stator thường nằm trong khoảng vài kV đến 14,4 kV. Muốn truyền đi xa hơn, người ta thường phải dùng một máy biến áp tăng áp. Để lấy điện đưa xuống sử dụng cho các thiết bị điện phụ vụ cho tổ máy vận hành, người ta dùng một máy biến áp hạ áp, trong trường hợp này gọi là máy biến áp tự dùng. Rotor của một máy phát điện tua bin khí sau khi được rút ra ngoài, và chuẩn bị cầu về cơ xưởng Rotor của nó có dạng trụ có xẻ rãnh, quấn nhiều cuộn dây kích từ đồng tâm. Hai đầu chỗ các mối hàn nối các thanh và các cuộn dây với nhau được bảo vệ bằng một vòng thép hình trụ, gọi là vòng hộ hoàn. Các dây dẫn ra ngoài được dẫn xuyên qua dọc theo trục máy để đưa ra phía đầu rotor. Từ đó có thể nối vào các vành nhận điện, để có thể đưa dòng điện từ bên ngoài vào qua các chổi than. Dòng điện đưa vào rotor máy phát điện thường là dòng điện một chiều, gọi là dòng kích thích. Thông thường, hai đầu của rotor đều có lắp đặt cánh quạt để thổi chất khí đi vào theo các dường dẫn đặt sẵn, để làm mát máy. Chất khí đó có thể là không khí tự nhiên, thông với môi trường bên ngoài, hoặc khí hydrogen, tuần hoàn kín. Trong trường hợp tuần hoàn kín, có thể phải lắp đặt thêm một số bộ trao đổi nhiệt, để làm mát chất khí đó bằng nước. Các máy phát điện tua bin hơi và máy phát điện tua bin khí có thể chế tạo từ một vài MW đến 700 MW. Một số kỹ thuật mới Trong khoảng 40, 50 năm gần đây, có nhiều kỹ thuật mới được sử dụng để chế tạo máy phát điện. Có thể kể như sau Hệ thống kích thích không chổi than, còn gọi là hệ thống kích thích xoay chiều. Thay máy phát kích thích một chiều bằng máy xoay chiều, và sử dụng hệ thống chỉnh lưu quay. Điều này cho phép loại bỏ hệ thống chổi than kềnh càng, không tin cậy. Hệ thống kích thích tĩnh. Không dùng máy kích thích cả một chiều lẫn xoay chiều. thay bằng một biến thế kích thích, và hệ thống chỉnh lưu công suất. Hệ thống máy phát điện áp cao Thay các dây quấn Stator bằng hệ thống dây cáp điện lực cao áp. Nhờ đó giảm được công chế tạo dây quấn máy phát, và có thể nâng điện áp ra đến 70 kV. Các chế độ vận hành Máy phát điện có thể có các chế độ vận hành khác nhau như sau Phát điện độc lập, cung cấp điện cho một nhóm tải tập trung Phát điện song song. Hòa đồng bộ với các máy khác, cung cấp cho một nhóm tải. Hòa đồng bộ với lưới. Cung cấp công suất lên lưới điện. Phát vô công, làm máy bù đồng bộ. Các bằng sáng chế Bằng sáng chế Hoa Kỳ số - Magneto-Electric Machines Thomas Edison's main continuous current dynamo. The device's nickname was the "long- legged Mary-Ann". This device has large bipolar magnets. It is inefficient. Bằng sáng chế Hoa Kỳ số - Dynamo-Electric Machine Edison's improved dynamo which includes an extra coil and utilizes a field of force. Bằng sáng chế Hoa Kỳ số - Dynamo Electric Machine - Nikola Tesla's construction of the alternating currentinduction motor/generator. Bằng sáng chế Hoa Kỳ số - Dynamo Electric Machine - Tesla's "Unipolar" machine a disk or cylindrical conductor is mounted in between magnetic poles adapted to produce a uniform magnetic field. Bằng sáng chế Hoa Kỳ số - Armature for Electric Machines - Tesla's construction principles of the armature for electrical generators and motors. Related to patents numbers US327797, US292077, and GB9013. Bằng sáng chế Hoa Kỳ số - Method of Operating Arc-Lamps - Tesla's alternating current generator of high frequency alternations or pulsations above the auditory level. Bằng sáng chế Hoa Kỳ số - Alternating Electric Current Generator - Tesla's generator that produces alternations of 15000 per second or more.
Ngày đăng 22/07/2014, 0021 Lịch sử và nguồn gốc máy phát điện Máy phát điện là thiết bị biến đổi cơ năng thành điện năng thông thường sử dụng nguyên lý cảm ứng điện từ. Nguồn cơ năng sơ cấp có thể là các động cơ tua bin hơi, tua bin nước, động cơ đốt trong, tua bin gió hoặc các nguồn cơ năng khác. Máy phát điện giữ một vaitrò then chốt trongcác thiết bị cungcấp thực hiện ba chức năngphát điện,chỉnh lưu, hiệu chỉnh điện áp. Lịch sử phát triển Máy phát điện xoaychiềuvào đầuthập kỉ 20, chế tạo tại Budapest, Hungary, trong buồng phát của một trạm thủyđiện Trướckhi từ tính vàđiện năng được khám phá, các máy phát điện đã sử dụngnguyên lý tĩnh phátđiện Wimshurst đã sử dụng cảm ứngtĩnh điện. Máy phát Van deGraaffđã sử dụng mộttrong hai cơ cấusau Điện tích truyền từ điện cựccó điện ápcao Điện tích tạora bởi sự ma sát Máy phát tĩnhđiệnđược sử dụngtrong cácthí nghiệmkhoa học yêu cầu điện áp cao. Vìsự khó khăn trong việc tạo cách điện cho các máyphát tạo điện áp cao, cho nên máy phát tĩnh điện được chế tạo với công suất thấp vàkhông baogiờ được sử dụng chomục đích phát điệnthương mại. Faraday Máy phát xách tay nhìn từ phía bên cạnh, cho thấy động cơ xăng Vào năm1831-1832 MichaelFaraday đã pháthiệnra rằng một chênh lệch điện thế được tạo ra giữa hai đầu một vật dẫn điệnmànó chuyển động vuông góc với một từ trường. Ông ta cũng đã chế tạo máyphát điệntừ đầu tiên được gọi là "đĩa Faraday", nó dùng một đĩa bằng đồngquay giữa các cực của mộtnam châm hình móng đã tạo ra một điện áp DCnhỏ và dòngđiện lớn. Dynamo Dynamo là máy phát điện đầu tiên có khả năng cungcấp điệnnăngcho công nghiệp. Dynamosử dụng nguyên lý cảm ứng điện từ để biến đổi năng lượng quay cơ học thành dòng điện xoaychiều. Cấu tạo của dynamo baogồmmộtkết cấu tĩnh mà nó tạo ra từ trường mạnh và một cácmáy phátdynamonhỏ, từ trường đượctạora bằng cácnam châmvĩnh cữu,đối với các máy lớn, từ trường được tạorabằng các nam châm điện. Máy phát dynamođầu tiêndựatrênnguyên lý Faradayđược chế tạo vào năm 1832doHippolyte Pixii- một nhà chế tạothiết bị đo nàyđã sử dụngmộtnamchâm vĩnh cửu được quay bằng một tay châm quayđược định vị sao chocực Namvà cực Bắc của nó đi ngang qua một mẫu sắt đượcquấn bằngdâydẫn. Pixiiphát hiện rằng nam châm quay đã tạo ramột xung điện trong dây dẫn mỗi lần một cực đi ngangqua cuộndây. Ngoài ra, cáccực Bắc và Nam của nam châm đã tạora một dòngđiện có chiều ngượcnhau. Bằng cách bổ sungmột bộ chuyển mạch,Pixiiđã có thể biến đổi dòngđiện xoay chiều thànhdòngđiện một chiều. Không giống như đĩa Faraday,nhiều vòngdâyđượcnối nối tiếpđược sử dụngtrong cuộn dây chuyển động của này cho phép điệnápđầu cực của máy caohơn sovớiđĩa Faradaytạo ra, dođó điện năng có thể phân phốiở mức điện áp thích hợp. Mốiquanhệ giữa chuyển độngquay cơ họcvà dòng điện trong dynamolà quá trìnhthuận nghịch, nguyênlý về mô tơ điệnđã được phát hiện khi người ta thấyrằng một máy dynamocó thể tạo ra cho mộtmáy dynamothứ hai quaynếu cấp dòng điện quanó. Jedlik dynamo Động cơ điện đơncực dynamo của ÁnyosJedlik 1861 Năm 1827,AnyosJedlik bắtđầu thử nghiệm với các thiết bị quay có từ tính mà ônggọi là cácrotor tự từ mẫuvật đầu tiên của một bộ khởi động đơn cực, đã được hoàn tất trong khoảng 1852và 1854cả phần tĩnhlẫn phần quay đều là namchâm điện. Ông đã trình bày nguyênlý của dynamoít nhất là 6 thángtrước Ernst Werner vonSiemens và CharlesWheatstone. Trên thựcchất nguyênlý của nólàthay vì sử dụng nam châm vĩnh cửu, thì dùng 2 namchâm điện đối xứngnhau để tạora từ trườngbao xungquanhrotor. Gramme dynamo Cả hai thiết kế trênđều tồn tại một vấn đề như nhau Chúng tạo ra những xungdòngđiện nhọnđầu không mong muốn. AntonioPacinotti, một nhà khoa học người Ý đã tìm cách giải quyết vấn đề bằngcách thay cáccuộn dây tròn bằngcác cuộn dây hình xuyến, tạo ra bằngcách quấn trên mộtvòng thép. Như vậy luôn có một số vòngcủa cuộn dây sẽ thông qua từ trường, và làmcho điện áp,dòng điện có dạng phẳng Gramme đã thực hiện lại thiết kế nàyvàinăm sau đó khi thiết kế một số nhà máy điệnở Paris trongthập niên1870. Thiếtkế này bâygiờ được gọi là Grammedynamo. Nhữngphiên bảnkhác nhauđã được phát triển, và chế tạo từ dây, nhưng nguyên lý cơ bảnvề những cuộn dây xếp theo vòng đã trờ thành trái timcủa tất cả cácdynamohiện nay. Khái niệm Máy phát điện làm di chuyển dòng điện nhưng không tạo rađiện tích. Những điện tíchnày sẵn cótrong trong phần dẫn điện của dây quấn. Một cách nào đấy, nó có thể ví với mộtcáibơm, tạo radòng nước chảy nhưngkhông tự tạo ranước. Cũng cónhững máy phát điện kiểu khác,dưatrên nhữnghiện tượng điệntự nhiênkhác như hiệu ứng ápđiện, hiệu ứngtừ thủy động. Kết cấu củadynamo tương tự với các động cơ điện,và các loạidynamothông dụngđều có thể hoạt độngnhư một động cơ. Thuật ngữ Các bộ phận của máy phát điện vàcác thiết bị liên quan có thể được gọi bằng những thuậtngữ cơ khí hoặcthuật ngữ dù đã được phân loạiriêngbiệt, hai bộ thuật ngữ này thườngđược sử dụng thay thế lẫn nhau hoặc kếthợp một thuật ngữ cơ với mộtthuật ngữ điện. Điều này gây ra những xáotrộn lớn khilàm việc với những máy hỗn hợp như máy phát xoay chiều kích từ không chổi than, hoặc khitrao đổi với những người đã thường làm việc với những máy được chế tạo theokiểu khác. Cơ học Rotorrô to, phần quaycủa mộtmáy phát điện, dynamohayđộng cơ điện. Stator sta to, phần tĩnh của một máyphát điện, dynamohayđộngcơ điện. Điện học Armature cuộndây phần ứng, thành phần sản xuất ra điện năng trong máy phát điện, dynamo hoặc độngcơ. Cuộn dây phầnứng có thể đặt trên rôto hoặc sta to. Fieldcuộn dây phần cảm thành phần tạo ra từ trường của máy phátđiện dynamohayđộngcơ điện. Phầntừ trường này có thể ở trênrô tohaysta to,và có thể là từ trườngcủa nam châm vĩnh cửu haytừ trườngcủa namchâm điện. Mạch tương đương Mạchtương đương của máy phát điện và tải. G = Máy phát V G =Điện thế hở mạch của máy phát R G =Nội trở của máy phát V L =Điện thế mangtải củamáy phát R L =điện trở tải Mạchtương đương của máy phát và tải được hiểnthị trên hình bên phải. Để có thể xácđịnh được nhữngthôngsố V G và R G của máy phát, vần thực hiện theo những bước dưới đây Trướckhi khởi động máy phát điện, đo điệntrở giữa cácđầu cựccủanó bằngmộtôm kế ohmmeter. Đâylà điện trở nội mộtchiều của máy R GDC . Khởi độngmáy khi nối máy phát vào tải R L , đo điện thế giữa các đầu cực máyphát. Ta có đượcđiện thế hở mạch V G . Nối máy phátvới tải như hình vẽ Đo điện áp trêncác đầu cực của máy phátkhimáyđang chạy. Đây là điệnthế mangtải củamáyV L . Đo điện trở tải R L , nếu bạn chưa biết. Tínhtoán tổng trở nội xoay chiều của máy phát R GAC theo công thức sau Lưu ý 1Tổng trở nội xoaychiều của máy phát điện khi đang chạy thường hoi cao hơn tổngtrở nội mộtchiều củanó khitĩnh. Nguyênlýtrên chophép bạn đo được cả hai giá trị. Khi tínhtoán thô,người ta có thể bỏ quabước đo R GAC và giả định rằng R GAC và R GDC bằng nhau. Lưu ý 2Nếu máy phát làmáy phátđiện xoay chiều thì phải dùngvôn kế xoay chiều để đo. Công suất tối đa Máy phát điện luôn có một tổng trở nội Z =R +jXdocấu tạo củanó. Do đó khi máy phát cung cấp dòng điện cho tải, nó đồng thời cấpdòng chonộitrở và tiêu tán mộtphần công suất. Nguyên lýtruyền côngsuất cựcđại qua mạngmột cửanêu lên rằngtải nhậnđược côngsuất cực đại khitổngtrở tải bằng chính nội trở nguồn. Tuy nhiên lúcđó hiệu suất của máy phát chỉ đạt50%. Điều đó cónghĩa là một nửa công suất phátra đã bị thất thoát thànhnhiệt năng bên trongmáy thế, những máy phát thực thụ thườngkhôngđượcthiếtkế để vận hành ở công suấttối đa, mà ở mức côngsuất thấphơn nhiều, thuộc khu vực có hiệusuất cao hơn. Công suất định mức Công suất định mức là công suất mà máyphát điệncó thể phát ra antoàn liên tục mà không gây xáo trộn trongmáy. Thôngthường côngsuất địnhmức của một máy phát điện phụ thuộc vào các yếu tố sau Tổngtrở trong của phần dẫnđiện Lượngnhiệt năng sinh rakhi có dòngđiện đi quaphần dẫn điện Nhiệt độ làm việcantoàn liên tục của phần cách điện Chế độ làm mát của phần dẫn điện Công suất khả dụng Công suất khả dụnglà công suất tốiđa mà máy phát có thể phát được an toànliêntục mà không vi phạm các thông số kỹ thuật khác. Thông thường,công suất định mức được tínhtoán ở cácđiều kiệntiêu chuẩn. Trong thựctế, các điều kiệnvận hành của thiếtbị có thể không đúng vớiđiều kiện tiêu thế công suất khả dụng thườngthấp hơn công suất định mức. Các điều kiệnảnhhưởng đếncông suấtkhả dụng của máy là Nhiệt độ môi trường Sự thayđổi chế độ làm mát của máy phát Sự lãohóa của chất cách điện, làm chonhiệt độ chịu đựng của máyphải giảm xuống Nhữnggiới hạncủa độngcơ sơ cấp kéo nó Nhữnggiới hạncủa các thiết bị lắp phíasau nó máy cắt,máy biến áp, đườngdây Máy phát điện công suất thấp Những chiếc xe có gắn động cơ đầu tiên cókhuynhhướng lắp đặt các máy phátđiện một chiều với bộ điều hòa điện thế bằngcơ khí. Kiểunày khôngđượctin cậy hoàn toàn, vàhiệu suất thấp,nên sau này đã được thay thế bằng các máy phát điện xoaychiều với nhữngmạch chỉnh lưu lắp trong. Công suất của hệ thốngđiện này trênxesẽ nạp lại cho các bình ắc quy sau khikhởi động. Ngõ rađịnh mức của nó thườngtrongkhoảng 50-100A ở điện thế 12 V, tùy thuộc vào thiếtkế tải phần điện bên trong số xe hiệnnaycó hệ thống trợ động dùngđiện, và hệ thống điều hòanhiệtđộ cũngbằng thiết bị này này làm tăngtải củahệ thống điện. Các xe tải nặng hơnsẽ sử dụng nguồn 24voltđể có đầy đủ lựccho độngcơ khởi độngđể có thể quay đượccácđộng cơ diesel lớn, mà không cần những sợi cáp điện lớn hơn,vốn ít tin cậy hơn. Các máy phát của xe thường không sử dụng nam châm vĩnh cửu; chúng có thể đạt đượchiệu suất đến 90% ở trong một dải tốc độ rất rộngbằng cáchđiều khiển điệnáp kích từ. Các máy phát dùng trong xehai bánh lại sử dụng namchâmvĩnh cảmcủa nó là các namchâm đất hiếm, vì thế có thể chế tạo nhỏ và nhẹ hơn các loại khác. . Lịch sử và nguồn gốc máy phát điện Máy phát điện là thiết bị biến đổi cơ năng thành điện năng thông thường sử dụng nguyên lý cảm ứng điện từ. Nguồn cơ năng sơ cấp có thể. các nguồn cơ năng khác. Máy phát điện giữ một vaitrò then chốt trongcác thiết bị cungcấp điện. Nó thực hiện ba chức năng phát điện, chỉnh lưu, hiệu chỉnh điện áp. Lịch sử phát triển Máy phát điện. xoaychiềuvào đầuthập kỉ 20, chế tạo tại Budapest, Hungary, trong buồng phát của một trạm thủyđiện Trướckhi từ tính và iện năng được khám phá, các máy phát điện đã sử dụngnguyên lý tĩnh điện .Máy phát iện - Xem thêm -Xem thêm Lịch sử và nguồn gốc máy phát điện potx, Lịch sử và nguồn gốc máy phát điện potx,
lich su may phat dien